15-12-2018 - Hiện nay, bắt đầu vào mùa mưa, nhiệt độ nước thấp. Đây là điều kiện thuận lợi để nhiều mầm bệnh phát triển mạnh, đặc biệt là bệnh gan, thận có mủ.
Ngoài Tôm ra thì việc điều trị bệnh cho Cá cũng một trong những chủ đề đang được rất nhiều bà con quan tâm. Cá lóc rất dễ nuôi và thịt rất thơm, ngon
Dù đã điều trị thành công rất nhiều trường hợp các ao nuôi cá bị Gan thận mủ trước đó, Nhưng ở lần này Trường Sinh đã thực sự khẳng định được chất lượng của mình tại trại nuôi cá Tầm trên diện tích 150 Lồng của Anh: Lê Như Sơn tại Bảo Lâm - Lâm Đồng
Trong ao nuôi, ngoài sử dụng các loại cá tạp, cá còn có thể ăn các thức Javascript đã bị tắt! Để sử dụng chức năng đầy đủ trên 2lua.vn bạn cần bật Javascript.
II - QUY TRÌNH XỬ LÝ BỆNH. - Điều trị bệnh theo nguyên tắc NHANH - MẠNH - LÂU dựa trên 4 đúng: đúng thuốc, đúng bệnh, đúng thời điểm, đúng liều lượng nhằm dứt điểm điều trị bệnh nhanh, hạn chế hao hụt và tái nhiễm. Lưu ý: Trường hợp cá bị nhiễm ký sinh, nên kèm
hoVYfC. Hiện nay, bắt đầu vào mùa mưa, nhiệt độ nước thấp. Đây là điều kiện thuận lợi để nhiều mầm bệnh phát triển mạnh, đặc biệt là bệnh gan, thận có mủ. Bệnh gan thận mủ làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôi Bệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên năm 1998, chỉ xuất hiện trên cá da trơn, đặc biệt là cá tra, basa; tuy nhiên, hiện đang xảy ra trên tất cả các loại cá nuôi như cá lóc, điêu hồng, cá rô, ếch… Đây là một bệnh xảy ra quanh năm, đặc biệt là mùa mưa, vào mùa lạnh, nhiệt độ thấp gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra, basa ở ĐBSCL, tỷ lệ chết là cao có thể 100% đối với cá bột ương giống, từ 30 – 50% đối với cá thịt và đã làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôi. Tác nhân Tác nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá tra là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri còn nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá lóc là vi khuẩn Aeromonas sp. Biểu hiện Các lóc bị bệnh gan thận mủ có biểu hiện bơi lờ đờ, kém linh hoạt. Quan sát bên ngoài cơ thể có nhiều điểm xuất huyết, giải phẫu xoang nội quan thấy có nhiều đốm trắng đục đường kính 1 – 2 mm trên gan, thận và tỳ tạng. Những đốm trắng trên các nội quan cá lóc nhìn giống như dấu hiệu của cá tra bị bệnh gan thận mủ nên người nuôi cá lóc cũng gọi là bệnh gan thận mủ. Tương tự bệnh xuất huyết, cá bệnh gan thận mủ cũng tìm thấy được trên các mẫu mô gan, thận và tỳ tạng những biến đổi mô học đặc trưng như có nhiều vùng hoại tử, xuất hiện nhiều trung tâm đại thực bào sắc tố. Ngoài ra, cá lóc mắc bệnh còn có dấu hiệu tổn thương dạng u hạt trên 3 cơ quan là gan, thận và tỳ tạng; ghi nhận được sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn bên trong và khu vực xung quanh của những u hạt. Những ghi nhận trên giống với những đặc điểm của cá rô nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila và cá điêu hồng nhiễm vi khuẩn S. agalactiae trong điều kiện thực nghiệm Đặng Thụy Mai Thy và ctv., 2012; Đặng Thụy Mai Thy và Đặng Thị Hoàng Anh, 2012. Ở mô gan, sự sung huyết trong hệ thống mao mạch nằm giữa các tế bào gan kéo dài làm vỡ mạch máu, giải thoát nhiều enzym tiêu hóa, từ các tế bào bạch cầu làm cho tế bào ở vùng viêm bị hủy hoạt dẫn đến hoại tử nhiều vùng trên gan. Làm cho gan mất chức năng khử độc, lọc máu… Từ đó, các chất độc không được loại bỏ sẽ tích lũy trong cơ thể, kết hợp với các yếu tố khác làm cho các chết Theo Robert. Khả năng lây lan Tốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Khi có mầm bệnh xâm nhập khoảng 3 – 4 ngày, toàn bộ cá trong ao đều bị nhiễm bệnh. Do đó, cần có biện pháp phòng bệnh tích cực. Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mủ và các sản phẩm phụ của cá để chế biến làm thức ăn trở lại cho cá; bởi mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước và phát tán vi khuẩn gây bệnh sang khu vực nuôi cá khác gây thành đại dịch. Phòng bệnh Biện pháp phòng bệnh quan trọng nhất không để cho động vật nuôi thủy sản bị sốc do môi trường thay đổi xấu nhiệt độ, ôxy hòa tan, nhiễm bẩn của nước. Môi trường nước đảm bảo tốt cho đời sống của động vật thủy sản. Đối với bè nuôi cá thường xuyên treo túi vôi, mùa xuất hiện bệnh 2 tuần treo một lần, mùa khác một tháng treo 1 lần. Vôi có tác dụng khử trùng và kiềm hóa môi trường nước. Lượng vôi trung bình 2 kg vôi nung/10 m3. Bè lớn treo nhiều túi và bè nhỏ treo ít túi tập trung ở chỗ cho ăn và phía đầu nguồn nước chảy. Đối với các ao nuôi áp dụng tẩy dọn ao như phương pháp phòng tổng hợp. Cũng định kỳ mùa bệnh 2 tuần rắc xuống ao 1 lần, mùa khác rắc 1 tháng 1 lần, liều lượng trung bình 2 kg vôi nung/100 m3 nước. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm lượng Vitamin C cho vào thức ăn trước mùa bệnh hoặc dùng thuốc phối chế KN – 04 -12 của Viện Nghiên cứu NTTS I cho cá ăn phòng bệnh, cách dùng, xem hướng dẫn mục thuốc. Trị bệnh Có thể dùng một số kháng sinh, thảo mộc có tác dụng diệt khuẩn điều trị bệnh như + Cá giống dùng phương pháp tắm thời gian 1 giờ. Oxytetracyline nồng độ 20 – 50 ppm. Streptomycin nồng độ 20 – 50 ppm. + Cá thịt dùng phương pháp cho ăn kháng sinh trộn với thức ăn tinh. Sulfamid liều dùng 150 – 200 mg/kg cá/ngày. Thuốc phối chế KN-04-12 liều dùng 2 – 4 g/kg cá/ngày. Cho cá ăn liên tục từ 5 – 7 ngày. Riêng với kháng sinh từ ngày thứ 2 trở đi liều lượng giảm đi 1/2 so ngày ban đầu.
I. TÁC NHÂN GÂY BỆNH - Bệnh gan thận mủ ở cá lóc do vi khuẩn Aeromonas schubertii gây ra. Hình 1 Vi khuẩn gây bệnh sau khi nhuộm Gram II. DẤU HIỆU VÀ ĐIỀU KIỆN XUẤT HIỆN CỦA BỆNH - Cá màu sậm, phản ứng chậm, tấp mé, xuất huyết ở các vây, hậu môn, da, mang, mắt và chân răng Hình 2. - Cơ thịt xuất huyết, nội quan xuất huyết sưng đỏ, sẫm màu. Gan, thận, tỳ tạng có nhiều đốm mủ trắng, trường hợp xuất hiện cả trên ruột cá Hình 3. - Bệnh xuất hiện hầu hết ở các giai đoạn nuôi, bùng phát mạnh vào mùa nắng, nhiệt độ cao tháng 1-4. Hình 1 Biểu hiện bên ngoài của cá bệnh Hình 3 Biểu hiện bên trong của cá bệnh III. GIẢI PHÁP PHÒNG VÀ XỬ LÝ BỆNH a. Giải pháp phòng bệnh - Cải thiện môi trường nước ao nuôi + Diệt khuẩn môi trường định kỳ GLUMAX 1L/ nước. + Bổ sung vi sinh VB-EM 5L/ nước cải thiện chất lượng nước và cạnh tranh với vi khuẩn gây bệnh. - Tăng cường sức đề kháng cho cá + Phòng ngừa xổ giun, sán đường ruột VB-SOL_new 1kg/15 tấn cá. + Định kỳ bổ sung BIO-X pro + VB12 pro 1kg hoặc 1kg/1L/10-15 tấn cá để tăng cường hỗ trợ tiêu hóa, chức năng gan, thận. b. Giải pháp xử lý bệnh - Trường hợp 1 Cá chỉ bệnh xuất huyết - gan thận mủ + Sử dụng BIO-POND_pro để khử khí độc, chất lơ lửng làm sạch môi trường nước. + Sử dụng GLUMAX để diệt khuẩn môi trường nước ao. + Giảm lượng thức ăn 50% và kết hợp dùng VB-RIDO_01+ VIBOZYME new. - Trường hợp 2 Cá bội nhiễm với bệnh nội ký sinh trùng giun, sán + Sử dụng BIO-POND_pro để khử khí độc, chất lơ lửng, làm sạch môi trường nước ao. + Giảm lượng thức ăn 50% và kết hợp dùng VB-SOL_new chỉ 2 ngày đầu + VB-RIDO_01. + Sử dụng DE AGA xử lý ký sinh trùng sau khi xổ ra môi trường nước nuôi. * Lưu ý Trường hợp gan cá yếu - trắng gan, thận viêm sưng cần kết hợp thêm BETA-50_new để hỗ trợ phục hồi gan thận cho cá.
Hiện nay, các mô hình nuôi cá lóc sử dụng hơn 90% thức ăn công nghiệp, thuận lợi cho các hộ trong việc điều tiết thức ăn theo nhu cầu sử dụng của cá, chủ động chăm sóc, chủ động giữ môi trường nuôi ít biến động xấu. Nghề nuôi cá lóc thâm canh trong ao, vèo lưới, hồ xi măng, phát triển mạnh khu vực Trà Cú tỉnh Trà Vinh, Trảng Bom, Định Quán tỉnh Đồng Nai, và một số huyện thuộc Hậu Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang. Nuôi cá lóc thâm canh góp phần quan trọng trong việc cải thiện kinh tế hộ, phát triển nghề nuôi thuỷ sản đa dạng hàng hoá. Bệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên năm 1998, chỉ xuất hiện trên cá da trơn, đặc biệt là cá tra, basa; tuy nhiên, hiện đang xảy ra trên tất cả các loại cá nuôi như cá lóc, điêu hồng, cá rô, ếch… Đây là một bệnh xảy ra quanh năm, đặc biệt là mùa mưa, vào mùa lạnh, nhiệt độ thấp gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra, basa ở ĐBSCL, tỷ lệ chết là cao có thể 100% đối với cá bột ương giống, từ 30 – 50% đối với cá thịt và đã làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôi. Tuy nhiên, cùng với vấn đề môi trường, dịch bệnh gan thận mủ trên cá lóc đang là vấn đề nan giải, gây khó khăn trong việc chuẩn đoán, điều trị, gây tốn kém chi phí thuốc, hoá chất. Dịch bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống cá nuôi, đến tăng trưởng, độ đồng đều bầy đàn, thiệt hại về kinh tế. Contents1 Tác nhân gây bệnh gan thận mủ2 Triệu chứng bệnh gan thận mủ trên cá lóc3 Khả năng lây lan4 Biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc Tác nhân gây bệnh gan thận mủ Tác nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá tra là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri còn nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá lóc là vi khuẩn Aeromonas sp. Gan bị vỡ mạch máu, hoại tử, thất thoát Enzyme tiêu hoá, mất chức năng khử độc, lọc máu. Nguyên nhân tiếp theo do di truyền, chọn giống, như sử dụng bầy cá bố mẹ sinh sản nhiều lần. Lai tạo giữa các bầy giống gần với nhau, cá giống bị đồng huyết, trùng huyết. Cá giống chất lượng kém, dễ bị dị hình, dị tật, phân đàn, chậm lớn, tỷ lệ sống thấp. Chất lượng cá giống giảm, ảnh hưởng sức đề kháng bệnh, vi khuẩn có trong nước dễ tấn công, gây bệnh. Nguyên nhân khác do môi trường như chất lượng môi trường nuôi cá kém, nguồn nước ô nhiễm. Ao nhiều chất hữu cơ, khí độc tăng cao, hàm lượng oxy thấp. Tảo độc phát triển trong ao nuôi như tảo lam, làm thay đổi chất lượng nguồn nước. pH biến động liên tục, độ kềm, độ cứng… không phù hợp cho cá nuôi. Môi trường ảnh hưởng sức khoẻ cá, vi khuẩn tấn công, gây bệnh. Thời tiết, khí hậu, cũng là nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ trên cá lóc nuôi. Những diễn biến bất thường của thời tiết như nắng nóng, mưa dầm, gây sụp tảo, làm chất lượng nước kém. Nhiệt độ xuống thấp đột ngột, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm gây sốc cho cá nuôi. Mưa làm thay đổi pH và các thông số môi trường trong ao nuôi gây sốc cá. Bên cạnh đó yếu tố dinh dưỡng cũng là tác nhân gây bệnh trên, việc bảo quản kém, thức ăn bị mốc, sinh độc tố, ảnh hưởng chất lượng thức ăn, sức khoẻ cá nuôi. Thức ăn thiếu chất dinh dưỡng cần thiết, thức ăn tươi sống, không đảm bảo chất lượng. Cho ăn dư thừa, gây ô nhiễm nguồn nước, biến động thông số môi trường, gây sốc cá. Nguyên nhân sau cùng do chăm sóc, quản lý. Thay nước, diệt khuẩn, sổ ký sinh trùng… không thực hiện định kỳ, đầy đủ, kịp thời. Bổ xung men tiêu hoá, Enzyme, hỗ trợ gan, premix… chưa được quan tâm kịp thời. Triệu chứng bệnh gan thận mủ trên cá lóc Các lóc bị bệnh gan thận mủ có biểu hiện bơi lờ đờ, kém linh hoạt. Quan sát bên ngoài cơ thể có nhiều điểm xuất huyết, giải phẫu xoang nội quan thấy có nhiều đốm trắng đục đường kính 1 – 2 mm trên gan, thận và tỳ tạng. Những đốm trắng trên các nội quan cá lóc nhìn giống như dấu hiệu của cá tra bị bệnh gan thận mủ nên người nuôi cá lóc cũng gọi là bệnh gan thận mủ. Bệnh gan thận mủ là một trong những bệnh phổ biến, thường gặp, trong nuôi cá lóc. Khi bị bệnh, cá thường xuyên nổi trên mặt nước, phản ứng chậm với tiếng động mạnh. Cá tách đàn, bơi lội chậm chạp, vô hướng. Cá hay tấp bơi dọc mé bờ, cơ thể mất cân đối Cá bệnh xuất huyết nhiều vùng trên thân, tia vây, vây, vảy, cuống đuôi. Tia mang tưa, rách, cụt, trắng nhợt nhạt, hoại tử. Vảy xù, dựng đứng, rách, tróc, từng mảng khỏi thân. Hậu môn sưng, lồi, mắt lồi, thân chuyển màu sậm đen hoặc trắng nhợt. Phân lỏng, nhũn, mau rả, chuyển màu đen sậm hoặc trắng nhợt. Xuất hiện vết thương trên cơ thể, gây bưng mủ, ghẻ, hoại tử cơ thịt. Bụng cá trương to, cơ thịt đàn hồi kém hoặc mất tính năng đàn hồi. Khi mổ cá, nôi tạng xuất huyết. Gan, mật, bao tử, bóng hơi, ruột sưng to, màu sắc nội tạng nhợt nhạt hoặc sậm đen, hoại tử thận chuyển màu đen, thâm tím, tái, trắng nhạt, tưa rách. Cá giảm hoặc bỏ ăn, thường xuyên dư thừa thức ăn. Cá đi phân sống, phân lỏng, dễ tan rã trong nước. Nguồn nước ô nhiễm, keo đặc, có nhiều bọt nổi trên mặt nước, nước ao bốc mùi tanh, hôi thối. Thông số môi trường chuyển xấu, khí độc tăng cao. Cá chết nổi lên mặt nước, số lượng tăng dần. Chất lượng môi trường chuyển xấu nhanh. Thời gian nuôi kéo dài, FCR cao. Bệnh nặng khó điều trị dứt điểm, tỷ lệ cá nhiễm bệnh tăng cao, nhanh, trong thời gian ngắn. Bệnh có khả năng lây lan sang các ao, hồ liền kề, phát tán rộng sang nhiều khu nuôi. Bệnh xảy ra ở nhiều loài cá nuôi, lây lan nhiều loài cá khác nhau. Khả năng lây lan Tốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Khi có mầm bệnh xâm nhập khoảng 3 – 4 ngày, toàn bộ cá trong ao đều bị nhiễm bệnh. Do đó, cần có biện pháp phòng bệnh tích cực. Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mủ và các sản phẩm phụ của cá để chế biến làm thức ăn trở lại cho cá; bởi mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước và phát tán vi khuẩn gây bệnh sang khu vực nuôi cá khác gây thành đại dịch. Biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc Các biện pháp phòng bệnh được khuyến cáo thực hiện chủ động bao gồm các công việc như Kiểm tra cá nuôi hàng ngày. Quan sát ngoại quan thân, mang. Nội quan hệ thống tiêu hoá. Kiểm tra độ đồng đều bầy đàn, hoạt động bơi lội, tiêu thụ mồi, tăng trưởng, ước tỷ lệ sống. Kiểm tra môi trường hàng ngày biến động thông số môi trường, khí độc, chủng loại và mật độ tảo, độ trong. Cập nhật số liệu vào sổ nhật ký nuôi cá. Điều chỉnh lượng ăn, số thức ăn, hàm lượng đạm, thực hiện các bước xử lý cần thiết. Phòng bệnh gan thận mủ bà con cần phối hợp nhiều giải pháp chủ động, đồng bộ, trong đó, môi trường Dùng chế phẩm sinh học xử lý nền đáy, thay nước nuôi thường xuyên, nếu có điều kiện. Về dinh dưỡng Nên bổ sung chất hỗ trợ gan như Sorbitol, Methionine, Cholin, Inositol, Beta glucan, trộn vào thức ăn hàng ngày, tăng sức đề kháng. Trộn thêm Enzyme, vi sinh đường ruột, acid hữu cơ, hỗ trợ tiêu hoá. Sổ ký sinh trùng thường xuyên. Kiểm soát con giống, bổ sung Vitamin C, B12, Beta glucan, Premix. Khi tiến hành điều trị bệnh gan thận mủ, việc làm trước khi xử lý là bà con ngưng cho cá ăn 1-2 ngày. Khi cho cá ăn lại 50% lượng ban đầu, tăng lượng từ từ. Xử lý môi trường nước nuôi khi cá nhiễm bệnh bằng cách thay nước nếu có thể, diệt khuẩn nước ao nuôi bằng Nano bạc, BKC, Iodine, H2O2, KMnO4. loại hoá chất, liều lượng dùng, tuỳ thuộc sức khoẻ cá, chất lượng môi trường. Hỗ trợ bón vôi, cải thiện nền đáy, bón chế phẩm sinh học gây lại hệ vi sinh có lợi trong ao. Bổ sung giải gan Sorbitol, Methyonine, B12…, Beta – Glucan, Premix. Khi điều trị bằng kháng sinh Dùng Doxycyclin phối hợp Florphenicol Hoặc dùng Sulfadimethoxin 5g/kg thức ăn phối hợp với Trimethoprim 2g Hoặc dùng Trimethoprim 5g phối hợp với Erythromycin 5g/kg thức ăn. Hoặc dùng Nano bạc đồng tạt và trộn với thức ăn Lưu ý, kháng sinh trộn vào thức ăn cho cá ăn không quá 5 ngày, sau thời gian trên, ngưng kháng sinh. Tăng cường giải độc gan bằng các chất đã nêu trên, bổ sung B12 cho cá hoặc sắt, do cá xuất huyết, mất nhiều máu. Bổ sung men tiêu hoá nhóm Bacillus, Lactobacillus, Saccharomyces. Định kỳ xổ, phòng ký sinh trùng cho cá, giúp cá bắt mồi, tiêu hóa tốt, sinh trưởng nhanh. Dùng Praziquantel, Menbendazole, Fenbendazole, Albendazole … xổ cho KST ra ngoài. Nên xổ ký sinh trùng khi cá khoẻ, dùng hoá chất diệt KST khi xổ ra ngoài môi trường. Dùng hỗ trợ gan, hỗ trợ đề kháng, lợi khuẩn đường ruột cho cá, sau khi xổ ký sinh trùng. CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI KỸ THUẬT VĨNH TÂM Địa chỉ Số A12/85 Đường 1A, Ấp 1, Xã Vĩnh Lộc B, Huyện Bình Chánh, TP. HCM Hotline 0923 884 877 – 0796 155 955 – 0789 377 177 – 0931 791 133 – 0907 771 622 – 0987 632 531 Email [email protected] Fanpage Vĩnh Tâm – Cung cấp giải pháp xử lý môi trường Youtube BIOFIX VIỆT NAM
Trong những năm gần đây, cá lóc trở thành một trong những loài cá được nuôi trồng nhiều, đặc biệt là ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ,… Có lẻ là do cá lóc có tốc độ tăng trưởng nhanh, dễ nuôi thêm vào đó lại có thịt thơm ngon nên rất là được thị trường và người dân ưa chuộng. Tuy nhiên trong quá trình nuôi loại cá này bà con cũng cần phải lưu ý một số căn bệnh có thể xuất hiện. Hôm nay hãy cùng tìm hiểu về căn bệnh gan thận mủ trên cá lóc Bệnh gan thận mủ là gì?Triệu chứng của bệnh gan thận mủ trên cá lócTốc độ lây lan của bệnhBiện pháp phòng và điều trị bệnhBiện pháp phòng bệnhBiện pháp điều trị bệnh Bệnh còn có nhiều tên gọi khác là bệnh mủ gan hay bệnh đốm trắng trên gan/ thận. Xuất hiện phổ biến trên các loài cá da trơn cá tra, cá nheo, cá lăng, cá trê,… Và những cá thể có kích thước lớn thường dễ nhiễm bệnh. Theo các chuyên gia. “Hung thủ” gây bệnh gan thận mủ được xác định là do chủng vi khuẩn Edwardsiella sp gây ra. Nhiệt độ thích hợp để bệnh phát triển trong khoảng 30oC. Nhiều nghiên cứu cho thấy những ao nuôi có nguồn nước bị ô nhiễm, điều kiện nuôi không đảm bảo, môi trường ao nuôi xấu,… Có xu hướng bùng phát dịch bệnh cao hơn rõ rệt. Ngoài ra, một số ao nuôi có mật độ quá dày. Cũng tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. “Hung thủ” gây bệnh gan thận mủ được xác định là do chủng vi khuẩn Edwardsiella sp gây ra Triệu chứng của bệnh gan thận mủ trên cá lóc Cá màu sậm, phản ứng chậm, tấp mé, xuất huyết ở các vây, hậu môn, da, mang, mắt và chân răng Cơ thịt xuất huyết, nội quan xuất huyết sưng đỏ, sẫm màu. Gan, thận, tỳ tạng có nhiều đốm mủ trắng, trường hợp xuất hiện cả trên ruột cá Bệnh xuất hiện hầu hết ở các giai đoạn nuôi, bùng phát mạnh vào mùa nắng, nhiệt độ cao tháng 1-4. Tốc độ lây lan của bệnh Tốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Khi có mầm bệnh xâm nhập khoảng 3 – 4 ngày. Toàn bộ cá trong ao đều bị nhiễm bệnh. Do đó, cần có biện pháp phòng bệnh tích cực. Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột. Để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mủ. Và các sản phẩm phụ của cá để chế biến làm thức ăn trở lại cho cá. Bởi mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước. Và phát tán vi khuẩn gây bệnh sang khu vực nuôi cá khác gây thành đại dịch. Biện pháp phòng và điều trị bệnh Biện pháp phòng bệnh Cải thiện môi trường nước ao nuôi Diệt khuẩn môi trường định kỳ GLUMAX 1L/ nước. Bổ sung vi sinh VB-EM 5L/ nước cải thiện chất lượng nước và cạnh tranh với vi khuẩn gây bệnh. Tăng cường sức đề kháng cho cá Phòng ngừa xổ giun, sán đường ruột VB-SOL_new 1kg/15 tấn cá. Định kỳ bổ sung BIO-X pro + VB12 pro 1kg hoặc 1kg/1L/10-15 tấn cá. Để tăng cường hỗ trợ tiêu hóa, chức năng gan, thận. Cải thiện môi trường nước ao nuôi Biện pháp điều trị bệnh Trường hợp 1 Cá chỉ bệnh xuất huyết – gan thận mủ Sử dụng BIO-POND_pro để khử khí độc, chất lơ lửng làm sạch môi trường nước. Sử dụng GLUMAX để diệt khuẩn môi trường nước ao. Giảm lượng thức ăn 50% và kết hợp dùng VB-RIDO_01+ VIBOZYME new. Trường hợp 2 Cá bội nhiễm với bệnh nội ký sinh trùng giun, sán. Sử dụng BIO-POND_pro để khử khí độc, chất lơ lửng, làm sạch môi trường nước ao. Giảm lượng thức ăn 50% và kết hợp dùng VB-SOL_new chỉ 2 ngày đầu + VB-RIDO_01. Sử dụng DE AGA xử lý ký sinh trùng sau khi xổ ra môi trường nước nuôi.
Hiện nay, bắt đầu vào mùa mưa, nhiệt độ nước thấp. Đây là điều kiện thuận lợi để nhiều mầm bệnh phát triển mạnh, đặc biệt là bệnh gan, thận có gan thận mủ làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôiBệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên năm 1998, chỉ xuất hiện trên cá da trơn, đặc biệt là cá tra, basa; tuy nhiên, hiện đang xảy ra trên tất cả các loại cá nuôi như cá lóc, điêu hồng, cá rô, ếch… Đây là một bệnh xảy ra quanh năm, đặc biệt là mùa mưa, vào mùa lạnh, nhiệt độ thấp gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra, basa ở ĐBSCL, tỷ lệ chết là cao có thể 100% đối với cá bột ương giống, từ 30 – 50% đối với cá thịt và đã làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nhânTác nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá tra là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri còn nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá lóc là vi khuẩn Aeromonas hiệnCác lóc bị bệnh gan thận mủ có biểu hiện bơi lờ đờ, kém linh hoạt. Quan sát bên ngoài cơ thể có nhiều điểm xuất huyết, giải phẫu xoang nội quan thấy có nhiều đốm trắng đục đường kính 1 – 2 mm trên gan, thận và tỳ tạng. Những đốm trắng trên các nội quan cá lóc nhìn giống như dấu hiệu của cá tra bị bệnh gan thận mủ nên người nuôi cá lóc cũng gọi là bệnh gan thận tự bệnh xuất huyết, cá bệnh gan thận mủ cũng tìm thấy được trên các mẫu mô gan, thận và tỳ tạng những biến đổi mô học đặc trưng như có nhiều vùng hoại tử, xuất hiện nhiều trung tâm đại thực bào sắc ra, cá lóc mắc bệnh còn có dấu hiệu tổn thương dạng u hạt trên 3 cơ quan là gan, thận và tỳ tạng; ghi nhận được sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn bên trong và khu vực xung quanh của những u hạt. Những ghi nhận trên giống với những đặc điểm của cá rô nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila và cá điêu hồng nhiễm vi khuẩn S. agalactiae trong điều kiện thực nghiệm Đặng Thụy Mai Thy và ctv., 2012; Đặng Thụy Mai Thy và Đặng Thị Hoàng Anh, 2012. Ở mô gan, sự sung huyết trong hệ thống mao mạch nằm giữa các tế bào gan kéo dài làm vỡ mạch máu, giải thoát nhiều enzym tiêu hóa, từ các tế bào bạch cầu làm cho tế bào ở vùng viêm bị hủy hoạt dẫn đến hoại tử nhiều vùng trên gan. Làm cho gan mất chức năng khử độc, lọc máu… Từ đó, các chất độc không được loại bỏ sẽ tích lũy trong cơ thể, kết hợp với các yếu tố khác làm cho các chết Theo Robert.Khả năng lây lanTốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Khi có mầm bệnh xâm nhập khoảng 3 – 4 ngày, toàn bộ cá trong ao đều bị nhiễm bệnh. Do đó, cần có biện pháp phòng bệnh tích cực. Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mủ và các sản phẩm phụ của cá để chế biến làm thức ăn trở lại cho cá; bởi mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước và phát tán vi khuẩn gây bệnh sang khu vực nuôi cá khác gây thành đại bệnhBiện pháp phòng bệnh quan trọng nhất không để cho động vật nuôi thủy sản bị sốc do môi trường thay đổi xấu nhiệt độ, ôxy hòa tan, nhiễm bẩn của nước. Môi trường nước đảm bảo tốt cho đời sống của động vật thủy với bè nuôi cá thường xuyên treo túi vôi, mùa xuất hiện bệnh 2 tuần treo một lần, mùa khác một tháng treo 1 lần. Vôi có tác dụng khử trùng và kiềm hóa môi trường nước. Lượng vôi trung bình 2 kg vôi nung/10 m3. Bè lớn treo nhiều túi và bè nhỏ treo ít túi tập trung ở chỗ cho ăn và phía đầu nguồn nước chảy. Đối với các ao nuôi áp dụng tẩy dọn ao như phương pháp phòng tổng hợp. Cũng định kỳ mùa bệnh 2 tuần rắc xuống ao 1 lần, mùa khác rắc 1 tháng 1 lần, liều lượng trung bình 2 kg vôi nung/100 m3 nước. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm lượng Vitamin C cho vào thức ăn trước mùa bệnh hoặc dùng thuốc phối chế KN – 04 -12 của Viện Nghiên cứu NTTS I cho cá ăn phòng bệnh, cách dùng, xem hướng dẫn mục bệnhCó thể dùng một số kháng sinh, thảo mộc có tác dụng diệt khuẩn điều trị bệnh như+ Cá giống dùng phương pháp tắm thời gian 1 giờ. Oxytetracyline nồng độ 20 – 50 ppm. Streptomycin nồng độ 20 – 50 ppm.+ Cá thịt dùng phương pháp cho ăn kháng sinh trộn với thức ăn tinh. Sulfamid liều dùng 150 – 200 mg/kg cá/ngày. Thuốc phối chế KN-04-12 liều dùng 2 – 4 g/kg cá/ cá ăn liên tục từ 5 – 7 ngày. Riêng với kháng sinh từ ngày thứ 2 trở đi liều lượng giảm đi 1/2 so ngày ban đầu.
bệnh gan thận mủ trên cá lóc